This is the fourth article in a series of six articles discussing how Vietnam can fulfill its commitments on energy at the COP26 conference to minimize environmental impacts while ensuring a roadmap for broader and sustainable development goals. Other articles in this series cover topics related to the role of wind energy in Vietnam’s power structure, integrating renewable energy into the grid, and how Vietnam can protect the natural productivity of the Mekong Delta by investing in alternative solutions to the Sekong A dam in Laos.
Photo: Wind power factory in Dong Hai 1, Tra Vinh Province © Trung Nam Group
In Vietnam’s efforts to achieve the ambitious emissions reduction target of “0” by 2050 committed at the COP26 conference, wind power is emerging as a significant contributor to the energy structure. Despite adding 16,000 MW of solar energy since 2019, Power Development Plan 8 (PDP8) forecasts that it is wind power, not solar power, that will drive the next phase of Vietnam’s renewable energy transition.
Current Status of Wind Power in Vietnam
The final report of PDP8 raised the targets for solar and wind energy to 50% of Vietnam’s electricity supply by 2045. Due to the intermittent nature of wind and solar power, 18 GW of wind power is needed by 2030, with an estimated 42.7 GW onshore and 54 GW offshore by 2045. This rapid expansion is technically feasible as Vietnam has at least 24 GW of high-quality onshore wind potential and an additional 404 GW at lower wind speeds. The World Bank estimates Vietnam’s offshore wind potential to be over 500 GW, providing electricity equivalent to that from current coal-fired plants, thanks to its long coastline and the strong winds of the Northeast monsoon. However, the current wind power capacity in Vietnam is just under 4 GW.
Bản đồ về tiềm năng gió của Việt Nam và / hoặc bản đồ về khả năng gió hiện có: https://datawrapper.dwcdn.net/ZmMEf/1/
Mặc dù năng lượng mặt trời đã thúc đẩy sự gia tăng năng lượng tái tạo gần đây của Việt Nam, nhưng thực tế sự quan tâm của chính phủ đối với năng lượng điện gió đã có từ trước năng lượng mặt trời. Quy hoạch phát triển điện 7 (PDP7) của Việt Nam được công bố vào năm 2010 với mục tiêu 1.000 MW vào năm 2020 và 6.200 MW vào năm 2030. Vào tháng 6 năm 2011, Quyết định 37 của Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra biểu giá điện (FIT) cho điện gió là 0,078 đô la Mỹ/kWh cho hợp đồng 20 năm.
Tuy nhiên, việc đầu tư vào các dự án điện gió chậm trở thành hiện thực. Chỉ có 135 MW điện gió được đưa vào hoạt động vào năm 2015, thấp hơn một nửa so với mục tiêu PDP7 cho năm 2020. Để đáp ứng với tình hình thực tế, bản PDP7 sửa đổi vào năm 2016 đã giảm mục tiêu điện gió xuống 800 MW vào năm 2020. Điều này trái ngược với năng lượng mặt trời khi có công suất tăng theo cấp số nhân sau khi biểu gía FIT đã được công bố vào năm 2017.
Vào đầu những năm 2010, Việt Nam đã đặt ra các mục tiêu về điện gió tương tự như Thái Lan và Philippines nhưng công suất lắp đặt đều thấp hơn 2 quốc gia này. Một sự khác biệt chính đó là biểu giá FIT thấp hơn: FIT của Philippines là 0,16 đô la Mỹ / kWh và FIT của Thái Lan là 0,15 đô la Mỹ/ kWh. Các biểu giá FIT cao hơn này đã giúp thành công trong việc kích thích đầu tư. Biểu giá của Việt Nam là quá thấp, đặc biệt là với lãi suất cao cho các dự án năng lượng tái tạo.
Xem thông tin: https://datawrapper.dwcdn.net/oSjnD/1/ hoặc https://datawrapper.dwcdn.net/o24TO/1/
Năm 2018, Quyết định số 39 đã tăng biểu giá FIT cho điện gió lên 0,085 đô la Mỹ / kWh cho gió trên bờ và 0,098 đô la Mỹ /kWh cho gió ngoài khơi đối với các dự án đi vào vận hành trước ngày 1 tháng 11 năm 2021. Điều này đã thu hút đầu tư: Công suất điện gió của Việt Nam đã tăng gấp 10 lần từ mức dưới 300 MW vào năm 2018 lên 3.980 MW vào tháng 11 năm 2022.
Chú thích về điện gió ở Việt Nam: https://datawrapper.dwcdn.net/6XDmJ/2/
Photo: An offshore wind power of Trung Nam Group in Tra Vinh Province © Trung Nam Group
Đã có tổng số 37 dự án khác với tổng công suất 2.500 MW không đưa vào vận hành được vào cuối tháng 10/2021. Tại nhiều dự án, nguyên nhận của sự chậm tiến độ này được cho là do có sự gián đoạn chuỗi cung ứng và giảm nguồn cung lao động, cũng như sự chậm trễ vận hành do đại dịch COVID. Mặc dù gần hoàn thành, nhưng các dự án này vẫn còn trong tình trạng lấp lửng vì các nhà đầu tư không tiếp tục hoàn thành dự án cho đến khi họ biết cấu trúc giá cả.
Tính đến giữa năm 2022, vẫn còn nhiều sự không chắc chắn về cơ cấu định giá trong tương lai cho cả gió trên bờ và ngoài khơi. Quyết định 39 chỉ ra rằng biểu giá FIT có thể được thay thế bằng hệ thống đấu giá ngược sau khi FIT hết hạn vào năm 2021, điều này sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư cạnh tranh về giá. Một công văn gần đây của Bộ Công Thương đề xuất biểu giá FIT sẽ giảm dần theo thời gian cho đến năm 2023 nhưng chưa có quyết định nào được đưa ra. Sự thiếu rõ ràng này về giá cả và các điều khoản trong Hợp đồng mua bán điện có thể sẽ hạn chế đầu tư trong ngắn hạn hơn nữa.
Một rào cản khác là tích hợp lưới điện. Sự phát triển nhanh chóng của năng lượng mặt trời và gió đang làm quá tải lưới điện. Số lượng các dự án mới đi vào vận hành kể từ năm 2020 đã vượt xa khả năng tiếp nhận của lưới điện, đặc biệt là ở các tỉnh tập trung lượng lớn năng lượng mặt trời và gió. Chỉ tính riêng năm 2021 đã có khoảng 75 nhà máy điện gió đã đi vào hoạt động và trong năm 2020 đã có hơn 100.000 công trình lắp đặt năng lượng mặt trời trên mái nhà và ít nhất 15 nhà máy năng lượng mặt trời đã được kết nối vào lưới điện. Các đường dây truyền tải điện thường xuyên hoạt động hết công suất và nhiều dự án phải cắt giảm công suất. Do đó, vào năm 2022, Trung tâm Điều phối điện Quốc gia thông báo rằng họ sẽ không phê duyệt bất kỳ dự án mới nào về năng lượng mặt trời hoặc gió trong năm 2022.
Việt Nam phải giải quyết vấn đề tích hợp lưới điện để đảm bảo tiếp tục tiến tới các mục tiêu đã cam kết tại COP26. Ngay cả khi dừng phê duyệt dự án mới về năng lượng gió và năng lượng mặt trời, chính phủ cần phải đầu tư mạnh mẽ vào việc cải thiện hệ thống truyền tải và có hiệu quả về mặt kinh tế, lưu trữ. Ngoài ra, cần cung cấp sự rõ ràng về biểu giá FIT trong tương lai hoặc đấu giá ngược. Điều này sẽ là công cụ để duy trì có được các dự án lành mạnh.
EVN, đơn vị thuộc sở hữu nhà nước, đã duy trì độc quyền truyền tải điện trong thời gian dài. EVN cũng đã đầu tư rất nhiều vào năng lượng điện. Điều này dẫn đến có sự hạn chế về nguồn vốn để có thể giải quyết sự tắc nghẽn lưới điện trong khi điều này làm hạn chế việc mở rộng năng lượng mặt trời và gió. EVN có thể làm việc với các nhà tài trợ quốc tế như Development Finance Corporation, Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản và Export Finance Australia để xây dựng hệ thống truyền tải của Việt Nam nhằm quản lý lượng năng lượng điện cao hơn. Những hạn chế về lưới điện đã khiến việc phát triển năng lượng mặt trời và gió ở Việt Nam đi vào bế tắc vào năm 2022. Việt Nam có thể tận dụng các nguồn tài trợ mới lớn hơn để giảm bớt điểm nghẽn này và duy trì quá trình chuyển đổi năng lượng tái tạo vốn đang được ngưỡng mộ và tránh những thách thức tương tự trong tương lai khi Việt Nam chạy đua tới mức phát thải carbon ròng bằng “0”.
Nguồn https://www.iucn.org/